Chương I
1. Họ Hồng Bàng
2. Nước Văn Lang
(2879-258 trước Tây Lịch)
Người xa bến bãi sông Lam
Ta về Đồng Tháp không cam lỗi thề?
"Giấy rách còn giữ lấy lề"
Người Việt đâu cũng nhớ về chốn quê.
Lạc Long Quân lấy Âu Cơ
Mười lăm bộ họp dưới cờ Văn Lang.
Họ Hồng Bàng, giữ giang san
Mười tám đời rạng ngai vàng Hùng Vương!
3. Chuyện cổ tích về đời Hồng Bàng:
Giặc Ân thua bởi nhiễu nhương
Thiên Vương Phù Đổng phi thường lớn mau.
Núi cao theo nước nông, sâu
Năm nào Sơn, Thủy tranh cầu Mỵ nương.
Sử xanh chép lại mà thương:
Chử Đồng Tử khổ mới tường Tiên Dung.
Lòng trời lượng cả bao dung
Tu nhân, tích đức hòa chung tiếng cười.
Chương II
NHÀ THỤC (258-207 trước Tây Lịch)
1. Gốc tích nhà Thục:
Thục Phán lấy đất, chiếm người
Văn Lang, Âu Lạc, đồng thời nhập chung.
Thục - Tàu chẳng thể cùng vùng
Khâm định Việt sử bàn cùng một chương.
2. Nước Âu Lạc:
Phong ba, nắng gió ai lường
Xây trang huyền thoại Mị nương ngậm ngùi.
Hờn vây, oán trả nào nguôi
Duyên tình tráo trở, bùi ngùi thế gian.
3. Nhà Tần đánh Bách Việt:
Ai xui Thục chiếm Văn Lang
Cho chàng Trọng Thủy lừa nàng Mỵ Châu.
Giặc Tần gieo rắc thương đau
Thục Phán - Bách Việt, lấy đầu Đồ Thư.
4. Nhà Thục mất nước:
Loa thành nhà Thục thật, hư:
“Nỏ thần trăm phát”? Gian mưu Triệu Đà:
Se duyên, Thục - Triệu thông gia
Đà mang giảo kế lừa nhà Thục Vương.
Xót nàng duyên gãy mà thương
Tội nàng tình thiệt vạ vương rụng rời.
Triệu Đà được nỏ, nuốt lời
An Dương Vương phải bỏ đời giữa khơi!
Chương III
XÃ HỘI NƯỚC TÀU VỀ ĐỜI
TAM ĐẠI VÀ ĐỜI NHÀ TẤN
Triệu - Thục hỗn chiến máu rơi
Bên Tàu, nhà Hán đánh rơi họ Tần.
1. Phong kiến:
Mỗi người thủ lãnh một phần
Lập thành một nước, cống thần mỗi năm.
Chư hầu có đến tám trăm
Chia công, hầu, bá, tử, nam hưởng cùng.
2. Quan chế:
Tam công, nhà Hạ ra khung:
Đại khanh, Nguyên sĩ với cùng Cửu khanh.
Nhà Ân, hai tướng, năm quan
Sáu quan thái, sáu phủ đàn, sáu công.
Sáu quan, đặt bởi Chu Công
Thiên, Xuân, Địa, Hạ, Thu, Đông, được thành.
Thiên quan, cấp đứng đầu ngành
Tên là Chủng tể, tuần hành ở trong.
Đại tư đồ giữ thương, công
Giáo dục, cảnh sát, hội đồng: Địa quan.
Đại tư mã, đầu Hạ quan
Cầm binh phụng mạng, trị an nước nhà.
Tam công một chức đặt ra
Quan trên chính sự, dưới là lục quan.
Hành chính chẳng được cùng can
Tam cô, Thái, Thiếu phó bàn chiến chinh.
3. Pháp chế:
Đời Thái Tổ có năm hình
Thêm roi da với đày mình: tội lưu.
Nhà Ân, nhà Hạ, nhà Châu
Lăng trì, mổ, muối, chặt đầu, xé thây...
4. Binh chế:
Năm người, nhập ngũ binh ngay
Quân, Sư, Súy, Lữ mỗi tay một phần.
Thiên tử thì có sáu quân
Nước nhỏ được một, chư thần được ba.
Nhà, Tỉnh từ Nước mà ra
Ấp, Khâu, Điện có cổ xa, trăm người.
5. Điền chế:
Mười phần ruộng lấy một mươi
Đi theo Phép cống tùy thời biến thiên.
Ân, Chu dùng phép Tỉnh điền
Công, tư hoa lợi, nộp liền đức vua.
Người nông của chẳng dư thừa
Giàu nghèo cấp bậc thì chưa rõ ràng.
Lý Khôi, Chiến quốc, luật ban:
Toàn dân làm ruộng, chẳng màng phép chi.
"Thiên mạch" được mở tức thì
Hai phép Cống, Tỉnh biệt ly, bất hoàn.
6. Học hiệu:
Vua, quan, nếu có sinh con
Vào trường Đại Học đọc mòn lễ, thư.
Tiểu học dạy cách làm người
Kính, nhường ứng xử, mở lời khéo khôn.
7. Học thuật:
Đời Chu có lắm danh ngôn
Khổng, Lão lễ nghĩa tiếng đồn chẳng ngoa.
Mặc Định kiêm ái, ôn hòa
Hàn Phi, Quỷ Cốc sáng lòa hiếu nhân.
8. Phong tục:
Công, thương, nông, sĩ đã phân
Phu tùy, phụ xướng mười phần lễ nghi.
Tổ tiên thờ phụng kính tri
Đến đời Ngũ bá mất đi tục này.
Văn minh Tần đã đổi thay
Triệu Đà truyền luật mới này mọi nơi.
Chương IV
NHÀ TRIỆU 趙
(207 - 111 trước Tây lịch)
1. Triệu Vũ Vương:
Tránh cho máu chảy đầu rơi
Triệu Vũ Vương mới chịu lời Hán Vương.
Nam Việt một cõi nhún nhường
Vua con yếu nhược, tính phương bán nhà.
2. Vũ Vương thụ phong nhà Hán:
Vũ Vương lập nghiệp bên ta
Bên Tàu, Hán diệt Sở là Lưu Bang.
Cao Tổ thấy Vũ đăng quang
Bèn sai Lục Giả chiêu hàng, tấn vương.
Kiêu căng, Vương mới coi thường
Lục Giả phân giải hư tường, mới thông.
3. Vũ Vương xưng Đế:
Khi Cao Tổ khuất ngôi rồng
Lữ Hậu quay lại tranh dòng, lấn vua.
Cấm quan hệ với bán mua
Vũ Vương bất mãn mới xua lính càn.
Xưng làm Hoàng Đế lại gan
Trường Sa đánh tới mở màn chiến chinh.
Quân Hán chẳng thuộc địa hình
Không quen thủy thổ muôn tình bệnh đau.
Quay đầu rút chạy về mau
Thanh thế Vũ Đế ngầu ngầu đỉnh thiên.
4. Vũ Vương thần phục nhà Hán:
Hán Văn Đế gởi thư riêng
Lục Giả nhận biển, trao liền Vũ Vương.
“Trẫm nay mọi việc đã tường
Lấy lại đất nước từ phường Lữ gian.
Quần thần thúc ép đăng quang
Nay thư gởi đến vua bàn chuyện binh.
Vì dân, trẫm mới cầu xin
Trường Sa hỗn loạn, dân tình khổ đau.
Nhà vua hãy rút binh mau
Hai bên chiến loạn thêm sầu thế nhân.
Đôi lời trẫm đã tường phân
Mộ phần đã sửa ở Chân Định rồi.
Hai nơi mấy núi xa xôi
Ganh nhau chẳng khác chi loài tiểu nhân”.
Lời thư tử tế hiền nhân
Tin lời, Vũ Đế xưng thần Hán cao.
Giáp Thìn, Triệu Vũ bãi trào
Trăm hai mốt tuổi đi vào vạn thu.
5. Triệu Văn Vương:
Văn Vương trí nhược, tâm nhu
Lên ngôi, giặc giã biên khu loạn ngầu.
Quân nhà Hán cứu binh nhau
Mân Việt giết chúa nạp đầu mới yên.
Mời chầu, Trang Trợ phụng thiên
Vũ Vương chẳng chịu mới liền gởi con.
Anh Tề Thái tử tâm non
Mười năm lạc nước nên mòn nghĩa quê.
6. Triệu Minh Vương:
Nghe Vũ mất, Anh Tề về
Lập hậu, xưng Đế đâu ngờ kẻ gian.
Tư thông kiếm lợi hai đàng
Cù bà vợ lẽ, ra màn cướp ngôi.
7. Triệu Ai vương:
Minh Vương khi đã mất rồi
Thái tử Hưng được lên ngôi trị vì.
Hán sai Thái Qúi tùy nghi
Cùng bà Thái hậu thị phi mập mờ.
Dụ con dâng nước, bán bờ
Hai bên chỉ đợi đến giờ nạp ra.
May nhờ Tể tướng Lữ Gia
Vạch mưu Cù Thái hậu và Ai Vương.
Người Nam đánh Hán kiên cường
Cho rằng vĩnh cữu, ai tường bại vong!
VIỆT NAM SỬ CA
(Ngọc Diện Hoa chuyển thể thơ dựa theo
Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim)