Mở Đầu
Phụ nữ Viêt Nam từ ngàn xưa đã vang danh “trung trinh tiết hạnh”, đúng với lời giáo huấn của cha ông:
“Trai thời trung hiếu làm đầu”
“Gáí thời tiết hạnh làm câu trau mình”
Những tấm gương oai hùng như bà Trưng, bà Triệu, hiền phụ như bà Tú Xương, bà Sương Nguyệt Anh. Những tấm lòng cao cả của các bà mẹ Việt Nam vẫn thường được nhắc nhở hàng năm trong các ngày Lễ Mẹ, ngày Rằm tháng Bẩy với “bông hồng cài áo”. Không ai có thể phủ nhận sức chịu đựng bền bỉ và đức tính cần cù chịu khó của các bà mẹ Việt Nam. Cũng không ai có thể phủ nhận đức tính trong sạch, ngay thẳng, và đàng hoàng của người phụ nữ Việt Nam. Những đức tính hy sinh, can đảm và chan chứa tình người đã nâng cao phẩm giá của người phụ nữ Việt Nam lên hàng Tiên Thánh, và biến một số người đàn bà nước Nam thành những vị Phụ Nữ Truyền Thuyết trong lịch sử dân tộc Việt.
Truyền Thuyết Là Gì?
Theo Giáo Sư Trần Gia Phụng, “Truyền thuyết là những câu chuyện bắt đầu từ sự thật lịch sử, được thêm thắt hoặc được tiểu thuyết hóa, và được truyền tụng từ người này qua người khác, từ đời này qua đời khác, rồi lại được dân chúng chấp nhận như là những chuyện lịch sử có thật”.
Tìm hiểu nghĩa ch “truyền thuyết”, Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh chỉ cho biết đơn giản: “nói lại với người khác”. Theo nghĩa tiếng Anh, “truyền thuyết” dịch từ chữ “Legend”, có nghĩa là “thánh truyện, truyện thần tiên, truyện hoang đường” (Từ Điển Nguyễn Văn Khôn). Thật ra, chữ “Legend” phát xuất từ chữ Latin “legenda”, động từ là “legere” có nghĩa là đọc (to read).
Thời Trung Cổ (Medieval), chữ Latin “legenda”, được dùng với nghĩa “điều gì đó để đọc”, đặc biệt dùng trong thể kể chuyện đời sống các Thánh. (Tiểu sử các Thánh được kể lại, quan trọng cả về tài liệu lịch sử, lẫn gương đạo đức). Chữ “Legend” trong tiếng Anh được vay mượn ở chữ “Legenda” từ thế kỷ 14, có nghĩa là: “câu chuyện được truyền tụng trong dân gian, nhưng không thể kiểm chứng được, tựa như các chuyện hoang đường”. Nếu là “Nhân vật truyền thuyết”, những nhân vật này có tên trong lịch sử được dân chúng kể đi kể lại nhiều lần trong nhiều đời, hoặc được thêm thắt, thần thánh hóa, để trở thành nhân vật lịch sử có thật. Đó là những Anh hùng, Anh thư, những Sương phụ, Hiền phụ và những danh nhân, danh tướng trong lịch sử.
Trong thời gian gần đây, người Việt Nam ở trong nước cũng như ở nước ngoài đều rất xôn xao khó chịu về những tin tức liên quan đến thân phận người con gái Việt Nam: “bị đầy đọa khi lấy chồng ngoại quốc, bị rao bán như nô lệ, hoặc làm nghề mãi dâm tại nhiều nơi, trên nhiều quốc gia”. Những hình ảnh này làm tổn thương đến danh dự người Việt nói chung, người phụ nữ Việt nói riêng không ít.
Thực tế, phần lớn Phụ Nữ Việt đều là những cô gái ngoan, hiền, trung trinh tiết hạnh theo truyền thống văn hoá Việt.
Chúng ta vinh danh Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam chính là để xua tan bóng mây mù đang che mờ đi hình ảnh người con gái Việt Nam oai hùng, tiết liệt, đồng thời để chứng minh với người ngoại quốc rằng: Phụ nữ Việt từ ngàn xưa vẫn là những cô gái được nhân gian tôn vinh kính trọng.
Thử đề nghị một Danh Sách Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam:
Đây là việc làm của Giáo Sư Trần Gia Phụng năm 1999, trong tập biên khảo “Những câu chuyện Việt Sử”, nhân báo Thời Sự (Toronto) số 145 ngày 20-6-1998 đăng tải danh sách 23 vị Phụ nữ của Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam (HLHPNVN) trình lên cơ quan UNESCO để chọn 10 người vào danh sách “Những phụ nữ truyền thuyết trong lịch sử thế giới” (The Women of the Legend in the Word History). Cũng theo Giáo sư Phụng phân tích, bảng danh sách của HLHPNVN đưa ra không được chính xác so với định nghĩa, thế nào là “truyền thuyết”, và thiếu vô tư, hoặc thiên vị. Cho tới nay, thời gian gần 6 năm đã trôi qua, không rõ cơ quan UNESSCO có chấp nhận bảng danh sách này hay không? Và sự lựa chọn ra sao?
Trên thực tế, Phụ nữ truyền thuyết Việt Nam rất nhiều, nhất là những bà vợ, bà mẹ các nhà cách mạng tranh đấu chống ngoại xâm và tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền; kể cả những Phụ nữ đã phải hy sinh trong rừng già, hay trên biển Đông vì lý tưởng Tự Do. Đó là những vị Phụ nữ truyền thuyết không tên tuổi rất xứng đáng được vinh danh.
Dựa vào bảng danh sách của HLHPNVN và của Giáo Sư Trần Gia Phụng đề nghị, chúng tôi xin mạo muội trình lên quí vị một danh sách “Phụ nữ truyền thuyết Việt Nam” như sau:
1- Quốc Mẫu Âu Cơ, 2- Trưng Vương, 3- Công Chúa Hoàng Thiều Hoa, 4- Lê Chân, 5- Bà Triệu, 6- Thái Hậu Dương Vân Nga, 7- Thái Hậu Ỷ Lan, 8- Công Chúa Huyền Trân, 9- Công Chúa An Tư, 10- Nguyễn Thị Bích Châu, 11- Lương Minh Nguyệt, 12- Vũ Thị Thiết (Thiếu Phụ Nam Xương), 13- Công Chúa Ngọc Hân, 14- Công Chúa Ngọc Vạn, 15- Nữ Tướng Bùi Thị Xuân, 16- Nữ Sĩ Đoàn Thị Điểm, 17- Nữ Sĩ Hồ Xuân Hương, 18- Bà Huyện Thanh Quan, 19- Thái Hậu Từ Dũ, 20- Bà Tú Xương, 21- Bà Nguyễn Thị Khuê (Sương Nguyệt Anh), 22- Bà Ba Đề Thám, 23- Bà Phan Bội Châu, 24- Lê Thị Đàn (Ấu Triệu), 25- Nguyễn Thị Bắc, 26- Nguyễn Thị Giang, 27- Thánh Mẫu Liễu Hạnh, 28- Nàng Tô Thị.
Sơ lược tiểu sử “Phụ nữ truyền thuyết Việt Nam”:
1.Quốc Mẫu Âu Cơ (Khoảng 2800 Tr.TL)
Theo truyền thuyết, khoảng gần 5000 năm trước, bà Âu Cơ dòng dõi tiên. kết duyên cùng vua Lạc Long dòng dõi rồng, sinh được 100 con trai là con rồng cháu tiên. Về sau, 50 con theo Cha Lạc Long xuống biển, 50 con theo Mẹ Âu Cơ lên núi, đi về phương nam lập ra nước Văn Lang, do người con trưởng làm vua hiệu là Hùng Vương, truyền được 18 đời . Người Việt Nam tôn vinh bà Âu Cơ là Quốc Mẫu. Trong ngày giỗ Tổ Hùng Vương mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm, người Việt Nam đều nhớ đến ơn Quốc Mẫu Âu Cơ.
2. Trưng Vương (40-43)
Năm 40 thời Bắc thuộc, Thái Thú Tô Định bắt giết ông Thi Sách chồng bà Trưng Trắc, và đàn áp dân Lạc Việt. Vì nợ nước thù nhà, bà Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị nổi dậy đánh đuổi Tô Định, đoạt 65 thành và 4 Quận, lên làm vua xưng là Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh. Triều đại Trưng Vương tuy chỉ ngắn ngủi 3 năm, nhưng đã chứng tỏ tinh thần bất khuất của người phụ nữ Việt, và mở đầu cho nền độc lập nước nhà. Hiện nay có nhiều đền thờ Hai Bà Trưng, và ngày lễ hội kỷ niệm hàng năm vào mồng 6 tháng hai âm lịch.
Công Chúa Hoàng Thiều Hoa (Danh tướng thời Trưng Vương)
Bà Hoàng Thiều Hoa người huyện Gia Hưng, tỉnh Thanh Hoá (có sách chép là tỉnh Sơn Tây ngày nay). Không rõ năm sinh, năm mất. Bà là một nữ tướng tài giỏi của Hai Bà Trưng, giữ nhiệm vụ huấn luyện đoàn Nương tử quân. Khi Hai Bà Trưng đánh đuổi xong giặc Hán đô hộ, lên ngôi vua, đã phong tước cho bà là Thiều Hoa Công Chúa. Hiện nay đền thờ Công Chúa Thiều Hoa ở làng Hiếu Quan, huyện Tam Nông. Hàng năm lễ hội kỷ niệm vào các ngày 12, 13 tháng giêng âm lịch.
3. Lê Chân (Danh tướng thời Trưng Vương)
Lê Chân là nữ tướng tài ba của Hai Bà Trưng, người làng An Biên, huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương. Không rõ năm sinh năm mất. Trong các trận đánh đuổi giặc Hán đô hộ, bà Lê Chân thường giữ chức tiên phong và nổi tiếng dũng cảm. Khi Hai Bà Trưng lên ngôi, đã giao việc Quốc phòng cho bà Lê Chân và phong làm Thánh Chân công chúa. Bà là người sáng chế ra môn thể thao “đánh phết” rất vui (vui ra phết). Các vua đời sau đều có sắc phong bà làm Thượng đẳng phúc thần công chúa. Hiện nay, đền thờ bà Lê Chân tại làng Mai Động (Hà Nội). Lễ hội kỷ niệm vào các ngày 4, 5 và 6 tháng giêng âm lịch, thường có tổ chức thi đấu vật và đánh phết.
4. Bà Triệu (225-248)
Bà Triệu tên thật là Triệu Thị Trinh cùng anh là Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa năm 248, chống lại quân Đông Ngô cai trị tàn ác. Bà rất can đảm, thường nói: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng kình ở bể đông, quét sạch bờ cõi, để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng làm tì làm thiếp người ta”.
Ra trận, Bà Triệu cưỡi voi mặc giáp vàng trông rất oai phong, khiến quân Ngô phải khiếp sợ. Nghĩa quân tôn bà là Nhụy Kiều tướng quân. Bà Triệu đã anh dũng hy sinh năm 23 tuổi.Hiện nay có đền thờ Bà Triệu trên núi Gai (núi Ải), làng Phú Điền (Thanh Hóa), và lễ hội kỷ niệm vào ngày 21 tháng 2 âm lịch hàng năm.
5. Thái Hậu Dương Vân Nga (942-1000)*
Dương Hậu là chánh cung Hoàng hậu của vua Đinh Tiên Hoàng, húy là Dương Vân Nga. Khi vua Đinh bi tên Đỗ Thích đầu độc chết, con là Đinh Tuệ lên nối ngôi, bà trở thành Thái Hậu nhiếp chính.
Nhà Tống nghe tin Đinh Tiên Hoàng mất, tự quân Đinh Tuệ còn nhỏ, nên đem quân sang xâm chiếm nước ta. Trước tình thế nguy cấp, Phạm Cự Lượng cùng một số tướng lãnh đã tôn Thập Đạo Tướng Quân Lê Hoàn lên ngôi để lo chống ngoại xâm. Thái Hậu Dương Vân Nga biểu đồng tình và sau đó trở thành chánh cung Hoàng Hậu của vua Lê Đại Hành. Nhờ tính cương nghị và thông hiểu tình thế, yên vị được triều chính, Dương Hậu đã giúp vua Lê đánh tan quân Tống. Hiện nay, tượng và đền thờ Dương Hậu tại đền vua Lê Đại Hành, ở làng Trường Yên (Ninh Bình), và lễ hội kỷ niệm cùng vào ngày kỷ niệm vua Đinh và vua Lê, 10 tháng 3 âm lịch (lễ hội Trường Yên).
* Theo tài liệu của Hoàng Công Khanh (Hoàng Hậu hai triều Dương Vân Nga)
6.Ỷ Lan Nguyên Phi (?-1117)
Tên thật là Lê Thị Ỷ Lan, xuất thân từ gia đình nông dân, người làng Thổ Lỗi, Bắc Ninh. Tương truyền bà đứng tựa gốc lan trong khi mọi người trong làng nô nức ra xem đoàn xa giá của vua Lý Thánh Tông đi qua. Nhà vua cảm sắc đẹp và thái độ dửng dưng lạ lùng của bà, bèn tuyển về cung làm Ỷ Lan (dựa gốc lan) phu nhân. Sau bà sinh ra vua Lý Nhân Tông và trở thành Hoàng thái hậu.
Thái Hậu Ỷ Lan đã giúp vua Lý Thánh Tông tạm thời nhiếp chính, trị nướùc kết quả tốt đẹp khi vua thân chinh đi đánh Chiêm Thành. Bà cũng có lòng cứu giúp những người con gái nhà nghèo phải đi ở đợ, nên dân chúng thời bấy giờ xưng tụng bà là “Quan Âm”. Thái Hậu Ỷ Lan mất ngày 25 tháng 7 năm Đinh Dậu (1117) (Không rõ ngày sinh).
7.Công Chúa Huyền Trân (cuối thế kỷ 13, đầu thế kỷ 14)
Trần Thị Huyền Trân là con gái vua Trần Nhân Tông, em gái vua Trần Anh Tông (trị vì 1293-1314). Không rõ ngày sinh ngày mất. Năm Bính Ngọ (1306), vua Trần Anh Tông nhận gả Huyền Trân cho vua Chiêm Chế Mân. Để đáp lễ, vua Chiêm dâng tặng Đại Việt 2 châu Ô và Lý. Huyền Trân về Chiêm được phong làm Hoàng Hậu. Hơn 1 năm sau, Chế Mân chết, theo tục lệ Chiêm Thành, Huyền Trân phải lên giàn hỏa. Vua Anh Tông sai tướng Trần Khắc Chung sang cứu. Tương truyền Trần Khắc Chung là người tình cũ của Công chúa Huyền Trân, do đó đã tạo nên một câu truyện tình lâm ly bi thiết trong sử Việt.
Dù bị phê phán về nhiều mặt, do sự kỳ thị chủng tộc và nền giáo lý Khổng Mạnh khắt khe, công chúa Huyền Trân vẫn được dân chúng Việt Nam biết ơn về sự việc nàng mang về cho nước Đại Việt hai châu Ô Lý, mở đầu cho cuộc Nam tiến sau này.
8.Công Chúa An Tư (thời vua Trần Nhân Tông)
Bà là con gái út vua Trần Thánh Tông, em gái vua Trần Nhân Tông (1279-1293), không rõ năm sinh năm mất. Tháng 2 năm Ất dậu (1285), Thoát Hoan xâm lăng đánh thắng nhiều nơi, đồng thời có một số vương hầu nhà Trần hàng giặc. Để ngăn chặn bớt tính hung hãn của giặc, vua Trần Nhân Tông đã sai Trần Dương và Đào Kiện đưa quốc muội là công chúa An Tư gả cho Thoát Hoan.
Ngoài chiến trường, dưới sự chỉ huy của Hưng Đạo Đại Vương, quân dân nước Nam cương quyết đánh giặc, trong khi đó dưới trướng Thoát Hoan, công chúa An Tư phải âm thầm nuốt nhục, hy sinh đời xuân sắc để trì hoãn sức giặc. Sự hy sinh của công chúa An Tư đã đóng góp phần nào cho cuộc chiến thắng quân Nguyên Mông dưới triều Trần, thế kỷ thứ mười ba.
9. Nguyễn Thị Bích Châu (Thời vua Trần Duệ Tông)
Bà là phi hậu triều vua Trần Duệ Tông ( trị vì 1372-1377), không rõ năm sinh năm mất. Trước đó khoảng 20 năm, cuối đời vua Trần Dụ Tông (trị vì 1341-1369), vì chính triều đổ nát, dân chúng lầm than, ông Chu Văn An đã dâng “Thất Trảm Sớ” đòi chém bẩy quyền thần gian nịnh. Bà phi hậu Bích Châu tuy là phận gái ở trong cung, cũng đã noi theo được tấm gương bất khuất của thầy Chu, can đảm dâng lên vua Duệ Tông bài “Kê Minh thập sách”, để cứu nguy xã tắc. Trong 10 điều (thập sách), có các điểm mạnh như sau: “Một là trừ kẻ bạo”, “Hai là tránh việc phiền nhiễu”, “Ba là trừ mọt nước”, “Bốn là đuổi bọn những lại”.
Bà Nguyễn Thị Bích Châu chỉ là một cung nhân “dám nói ra những sự thối nát của chế độ giữa thời phong kiến toàn thịnh, kể thật can đảm và đáng khen lắm thay”. (Phạm Văn Sơn - Việt Sử Tân Biên)
10. Lương Minh Nguyệt (Thời Lê Lợi kháng Minh)
Bà là vợ Đinh Liệt (?-1471) (danh tướng của Bình Định Vương Lê Lợi), người làng Chuế Cầu, tỉnh Nam Định, có nhan sắc và giỏi nghề ca hát Ả đào. Trong thời gian Lê Lợi kháng Minh, bà đã mở quán rượu nổi tiếng ở gần thành Cổ Lộng (Đông Đô tức Thăng Long), cốt ý dò la tin giặc, giúp kháng chiến. Trong một cuộc tấn công thành Cổ Lộng, bà Minh Nguyệt đã cùng các cô gái tiếp viên phục rượu một số tướng Minh say mèm, và làm ám hiệu để quân Lam Sơn dưới quyền chỉ huy của tướng Lê Thạch chiếm được thành.
Sau, Đinh Liệt được phong tước Quốc công, mang họ nhà vua (họ Lê), và bà là Nhất Phẩm Phu nhân. Các vua đời sau đều có sắc phong vợ chồng bà là Phúc thần. Theo tài liệu của Giáo Sư Trần Gia Phụng, bà Lương Thị Huệ có lẽ là một tên khác của bà Lương Minh Nguyệt (?), hiện có đền thờ tại huyện Thọ Xương và dân chúng còn gọi bà là Ngọc Kiều Phu nhân.
11. Vũ Thị Thiết tức Thiếu Phụ Nam Xương (Đời Lê Thánh tông):
Bà quê huyện Nam Xương (Hà Nam), là vợ chàng Trương, mới có thai thì chồng được gọi đi lính thú phương xa. Đứa bé trai sinh ra không biết mặt cha. Mỗi tối bà thường chỉ bóng mình trên vách mà dạy con chào hỏi cha trước khi đi ngủ. Ít lâu sau chàng Trương trở về, đứa bé thấy xa lạ và nói bố nó chỉ về lúc đêm tối. Chàng Trương nghi ngờ vợ ngoại tình, nên đã mắng nhiếc đuổi đi. Bà Thiết bị oan ức, lai không biết biện bạch ra sao, bèn nhẩy xuống sông Hoàng Giang (địa phận Nam Xương) tự tận. Đến tối thắp đèn lên, đứa bé mới chỉ bóng chàng Trương trên vách và nói rằng bố nó đã về. Chàng Trương lúc đó mới hiểu ra, nhưng đã trễ. Dân chúng biết chuyện người đàn bà tiết nghĩa chết oan, bèn lập miếu thờ. Vua Lê Thánh tông (1460-1497) tuần thú đi qua miếu, đã làm một bài thơ vịnh rất nổi tiếng, được khắc vào bia đá năm 1471, và truyền tụng đến ngày nay.
12 .Công chúa Ngọc Hân (1770-1799):
Công Chúa Lê Thị Ngọc Hân là con vua Lê Hiển Tông. Năm 16 tuổi, công chúa kết duyên với vị anh hùng Nguyễn Huệ, người có công diệt Trịnh Phù Lê và đánh đuổi quân xâm lăng Xiêm La và Mãn Thanh. Bà Ngọc Hân vừa xinh đẹp, lại có tài văn học, được Hoàng Đế Quang Trung Nguyễn Huệ phong làm Bắc cung Hoàng Hậu. Khi vua Quang Trung đột ngột băng hà, bà rất buồn, đã sáng tác các bài “Văn tế vua Quang Trung” và “Ai Tư Vãn”, đóng góp cho kho tàng văn học Việt Nam những áng thơ hay và cảm động.